Khu biệt giữa biểu thức vị ngữ, tham tố, và sung ngữ Sung ngữ

Chẩn đoán lược bỏ

Sự phân biệt giữa tham tố, sung ngữ, và vị ngữ là chính yếu với hầu hết lý thuyết cú pháp và ngữ pháp. Vị ngữ thì cần có tham tố và cho phép thêm những sung ngữ nhất định nào đó.[5] Tham tố của vị ngữ là cần thiết để hoàn thành ý nghĩa của vị ngữ.[6] Trái lại, sung ngữ của vị ngữ thì cung cấp thông tin bổ trợ về ý nghĩa cốt lõi của vị ngữ-tham tố, tức là nó không cần thiết cho việc hoàn thành ý nghĩa của vị ngữ. Sung ngữ và tham tố có thể được xác định bằng nhiều phép chẩn đoán khác nhau. Chẳng hạn phép chẩn đoán lược bỏ[lower-alpha 24] thì giúp xác định nhiều tham tố do đó cũng gián tiếp xác định được nhiều sung ngữ. Thành tố đã cho nào đó nếu bị lược bỏ khỏi câu, tiểu cú, hay ngữ đoạn mà lại sinh ra một biểu đạt không chấp nhận được, thì thành tố đó không phải là sung ngữ, ví dụ:

a. Fred certainly knows.b. Fred knows. – certainly có thể là sung ngữ (và quả là vậy).a. He stayed after class.b. He stayed. – after class có thể là sung ngữ (và quả là vậy).a. She trimmed the bushes.b. *She trimmed. – the bushes không phải là sung ngữ.a. Jim stopped.b. *Stopped. – Jim không phải là sung ngữ.

Các phép chẩn đoán khác

Các đặc trưng để chẩn đoán thêm nữa được dùng để khu biệt giữa tham tố và sung ngữ thì bao gồm tính đa[lower-alpha 25], khoảng cách ra khỏi phần trung tâm[lower-alpha 26], và khả năng đẳng kết[lower-alpha 27].

Phần trung tâm có thể có nhiều sung ngữ nhưng chỉ có một tham tố (=bổ ngữ[lower-alpha 28]):

a. Bob ate the pizza. – the pizza là tham tố tân ngữ (=bổ ngữ).b. Bob ate the pizza and the hamburger. the pizza and the hamburger là ngữ đoạn danh từ có chức năng như tham tố tân ngữ.c. Bob ate the pizza with a fork. – with a fork là sung ngữ.d. Bob ate the pizza with a fork on Tuesday. – with a fork và on Tuesday đều là sung ngữ.

Tham tố tân ngữ thường hay nằm gần phần trung tâm hơn sung ngữ:

a. the collection of figurines (bổ ngữ) in the dining room (sung ngữ)b. *the collection in the dining room (sung ngữ) of figurines (bổ ngữ)

Sung ngữ có thể đẳng kết với các sung ngữ khác, nhưng không thể đẳng kết với tham tố:

a. *Bob ate the pizza and with a fork.b. Bob ate with a fork and with a spoon.

Tham tố tùy ý so với sung ngữ

Sự phân biệt giữa tham tố và sung ngữ thực ra lại ít rõ ràng hơn các trường hợp mà các đề xuất chẩn đoán đơn giản bên trên nêu ra. Hầu hết nhận định về sự phân biệt tham tố với sung ngữ ghi nhận được thêm mấy sự phân chia nữa cơ. Có một nhận định thì có phân chia thêm ra tham tố bắt buộc và tham số tùy ý. Tham số tùy ý thì có vẻ có mô thức giống như sung tố khi chỉ có mỗi phép chẩn đoán lược bỏ được dùng, ví dụ:

a. Fred ate a hamburger.b. Fred ate. – a hamburger không phải là tham tố bắt buộc, nhưng nó có thể là tham tố tùy ý (và quả là vậy).a. Sam helped us.b. Sam helped – us không phải là tham tố bắt buộc, nhưng nó có thể là tham tố tùy ý (và quả là vậy).

Sự tồn tại của tham tố tùy ý làm lu mờ đi lằn ranh giữa tham tố và sung ngữ một cách đáng kể. Ngoài các phép chẩn đoán bên trên thì phải sử dụng thêm nhiều chẩn đoán nữa mới có thể khu biệt giữa sung ngữ và tham tố tùy ý. Một phép chẩn đoán nữa là phép thử tiểu cú quan hệ[lower-alpha 29]. Thành tố kiểm thử được di chuyển từ tiểu cú mẹ sang một tiểu cú quan hệ hạ cấp[lower-alpha 30] mới, đặt ở đằng sau cụm từ which occurred/happened. Nếu kết quả không chấp nhận được thì thành tố kiểm thử chắc hẳn không phải là sung ngữ:

a. Fred ate a hamburger.b. Fred ate. – a hamburger không phải là tham tố bắt buộc.c. *Fred ate, which occurred a hamburger. – a hamburger không phải là sung ngữ, tức nó phải là tham tố tùy ý.a. Sam helped us.b. Sam helped. – us không phải là tham tố bắt buộc.c. *Sam helped, which occurred us. – us không phải là sung ngữ, tức nó phải là tham tố tùy ý.

Một ưu điểm đặc thù của phép thử tiểu cú quan hệ đó là khả năng khu biệt được nhiều tham tố với ngữ đoạn giới từ sung ngữ, ví dụ:

a. We are working on the problem.b. We are working.c. *We are working, which is occurring on the problem. – on the problem là tham tố tùy ý.a. They spoke to the class.b. They spoke.c. *They spoke, which occurred to the class. – to the class là tham tố tùy ý.

Độ đáng tin cây của phép chẩn đoán tiểu cú quan hệ thực ra là có hạn. Chẳng hạn, nó lại chỉ ra sai rằng nhiều sung ngữ tình thái và phương thức là tham tố. Việc này là minh chứng cho sự khó khăn trong việc mang lại một phép chẩn đoán tuyệt đối cho sự phân biệt đang bàn. Dẫu có nhiều khó khăn, hầu hết lý thuyết cú pháp và ngữ pháp thì ở một mặt người ta đều khu biệt tham tố với sung ngữ và ở một mặt khác người ta đều khu biệt tham tố tùy ý với sung ngữ, và hai hướng này đều dành vị trí chính yếu cho những sự phân chia này trong lý thuyết bao quát ở đây.